Chân dung linh mục
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Chân dung linh mục
Chân dung linh mục Việt Nam: Linh mục Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn
VietCatholic News (11 Sep 2009 11:33)
Cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn - Cuốn từ điển bách khoa sống
Người giáo dân Vinh không ai là không biết đến địa danh xứ đạo Thọ Ninh. Đó là một xứ đạo truyền thống “lắm cụ nhiều quan”, nơi sản sinh nhiều nhân vật đạo đời nổi tiếng. Từ trước tới nay, Giáo xứ Thọ Ninh đã cung cấp cho Giáo Hội đến 79 linh mục triều, dòng. Nhưng nổi bật hơn cả, phải kể đến cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn. Ngài vừa là linh mục gốc giáo phận Vinh, nhưng cũng là linh mục của giáo phận Ban Mê Thuột với các chức danh: cha sở, cha quản hạt, cha Tổng đại diện giáo phận Ban Mê Thuột.
Ngài sinh năm 1898 trong một gia đình Công giáo đạo hạnh tại giáo xứ Thọ Ninh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thân phụ là một nhà nho làm nghề đông y nổi tiếng. Sau khi học 6 năm Tiểu chủng viện và giúp xứ 6 năm, thầy Ngoạn được cử đi du học 6 năm tại Đại chủng viện Penang, Malaysia, một Đại chủng viện quốc tế dành cho các sinh viên miền Đông Á. Tốt nghiệp, ngài trở về Việt Nam và chịu chức linh mục dịp Lễ Chúa Giáng sinh 1932. Sau đó, ngài lần lượt đảm nhận các chức vụ: giáo sư Tiểu chủng viện (1933-1943); giáo sư Đại chủng viện, rồi Giám đốc Đại chủng viện Xã Đoài (1943-1956).
Biến cố chia đôi đất nước đưa ngài lên cao nguyên Ban Mê Thuột cùng với một số giáo dân Vinh. Ngài nhập giáo phận Kontum và làm cha sở giáo xứ Ban Mê Thuột. Ngài xây nhà thờ với kiểu dáng giống nhà thờ Sapa thuộc giáo phận Hưng Hóa. Nhà thờ này trở thành Nhà thờ Chính Tòa khi thành lập giáo phận Ban Mê Thuột năm 1967. Năm 1969, cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn xin nghỉ hưu, vì tuổi già sức yếu. Ngài rút về nhà người cháu là ông Trần Văn Cung, để nghỉ ngơi và chuyên lo nghiên cứu và đọc sách. Thỉnh thoảng ngài được mời giảng tĩnh tâm, hay thuyết trình cho các linh mục, các Dòng tu về thần học và tu đức. Ngài là một linh mục thánh thiện, khiêm tốn. Tuy cao niên và là bậc thầy của nhiều thế hệ linh mục, ngài vẫn xưng “con” với người đối thoại. Ngài sống rất khó nghèo, đạm bạc… Đơn sơ trong y phục và sử dụng các phương tiện. Những dịp tĩnh tâm hạt, hoặc tĩnh tâm thường niên của các linh mục giáo phận, ngài thường lưu ý: Phải đọc Thần vụ thong thả để có thể nếm được cái ý vị ngọt ngào và phong phú của Thánh Vịnh. Ngài dâng lễ sốt sắng, khoan thai. Các bài giảng của ngài phải nói được là những bài giáo lý mẫu (Keryma) rất hấp dẫn, cụ thể, được minh họa bằng những câu chuyện sinh động, trí thức kính nể, bình dân hiểu rõ. Các giáo xứ đến phiên chầu lượt, đều muốn mời cha già Ngoạn đến giảng về Bí tích Thánh Thể. Nổi tiếng là thông thái, ngài cũng từng được mời giảng trong thánh lễ riêng của vị đứng đầu chính phủ VNCH thời đó. Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sau khi tiếp xúc với cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn, thấy được kiến thức uyên bác của ngài, đã nói: “Ban Mê Thuột có một cuốn từ điển bách khoa sống”. Đức Cố Giám mục Paul Seitz (Đức cha Kim) đã dùng cha Ngoạn làm cố vấn thần học. Một linh mục học trò của ngài kể lại: Khi còn là giáo sư Đại chủng viện Xã Đoài, giáo phận Vinh, mỗi dịp đi nghỉ hè, ngài thường đưa một số đại chủng sinh đi theo, đến một xứ nào đó, để trình bày về một vấn đề thần học, hoặc triết học. Cách trình bày rất bình dân, dễ hiểu, ai cũng có thể tiếp thu.
Về sự nghiệp văn hóa: cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn là một “học giả thầm lặng". Có thể gọi ngài là "nhà thần học uyên thâm của Giáo Hội Việt Nam” (lời Đức cha Phêrô Trần Xuân Hạp) Bẩm sinh thông minh, hiếu học, say mê đọc sách. Thích nghiên cứu, sưu tầm đủ loại vấn đề, ghi chép thành “fiches” (phiếu). Các học trò của ngài đều được khuyến khích viết fiches. Ngài có một bộ phiếu khổng lồ mà Ngài gọi là “silva rerum”, nghĩa là như một khu rừng tài liệu văn hóa. Rất tiếc là kho tàng quý báu này đã bị tiêu tán mất 2 lần, vào năm 1955 (di cư vào Nam) và 1975 (thống nhất đất nước). Chính ngài đã tâm sự thế này: “Trong đời linh mục của tôi đến nay (1975) đã trên 40 năm. Tôi thích đọc sách, nghiên cứu, sưu tầm, rồi lập danh mục, viết những phiếu ghi chép … Có loại phiếu đánh số thứ tự, loại ghi theo chuyên đề… Có khi viết ra thành tập như tập “Thế giới vô cùng lớn”, “Thế giới vô cùng nhỏ”, “Khoa học có thể tạo nên vật sống được không, theo phương diện tín lý”? “Đức tin và Tín ngưỡng”, “Đức tin và luân lý”, Đức tin và Tôn giáo”, “Suy luận về định nghĩa Đức tin theo thần học cổ điển”, “Thần học cổ điển và Thần học Thánh Kinh”, “Cho được sống mầu nhiệm Đức tin”…Còn nhiều tập khác, ngài không thể nhớ hết. Trong đời ngài, có 2 lần mất mát mà ngài cho là lớn nhất, vì là mất những cái mà ngài cho là quý hóa nhất. Đó là mất những biên tập, những ghi chép nói trên. Mỗi lần mất như vậy, là mất hết những công trình sưu tầm trong 20 năm, từ khi làm giáo sư Tiểu rồi Đại chủng viện (1935–1955). Biến cố đất nước chia đôi và cuộc di cư khiến ngài không mang được gì. Tại miền Nam, Ngài lại khởi công sưu tầm, biên chép làm phiếu, ghi notes… và biên khảo, như tập “Những đặc điểm ngoại thường trong Hiến chế Vui mừng và Hy vọng”, và tập viết bằng Pháp văn. “Essai d’une nouvelle exposition de la doctrine Eucharistique”… Nhưng tập ngài yêu quý nhất là tập “Cho được sống mầu nhiệm Phục Sinh” đang viết dở dang, dày 400 trang vở học sinh, chữ nhỏ. Đùng một cái, vừa đúng 20 năm sưu tầm, tức là ngày 10-03-1975, nhà ngài bị đạn pháo bắn cháy thiêu hủy tất cả tài sản. Sau lần tổn thất to lớn này, ngài không còn hy vọng tiếp tục công trình sưu tầm, nghiên cứu, vì một phần tuổi già, sức yếu, một phần không thể kiếm lại và mua sắm được những sách vở, tài liệu như trước. Thỉnh thoảng, - như một quán tính, - ngài vẫn cố nhớ lại những gì đã viết, đã nghiên cứu. Sự hồi tưởng này giúp ngài như được nếm những vị ngọt trên trời (sapere coelestia). Sự cố gắng hồi tưởng và “bươi móc” ký ức, theo ngài, không những giúp ích thiêng liêng, mà còn có thể thu thập được một số “mảnh vụn” (fragmenta). Nếu không được “12 thúng” thì ít ra cùng được vài “nhúm tay”. Như vậy, cũng không phải là uổng công dã tràng! (Colligite quae superaverunt fragmenta, ne pereant).
Người ta càng khâm phục và ca ngợi trí thông minh sâu sắc của cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn, khi biết rằng, tuy được hấp thụ một nền thần học cổ điển, kinh viện, thời Trung cổ, thế nhưng, ngài đã có một ngòi bút phân tích và tổng hợp rất hệ thống. Chúng ta hãy đọc những “fragmenta” ngài viết trong thời gian nghỉ hưu và bệnh tật:
1. Đức Tin Phục Sinh.
2. Những đặc điểm ngoại thường trong Hiến chế Vui mừng và Hy vọng.
3. Thiên Chúa là Tình Yêu.
4. Bí tích Thánh Thể theo trào lưu Thần học thời đại Vaticanô II.
5. Thánh Thần ban sự sống.
6. Nghệ thuật thuyết giảng của linh mục.
7. Thần học cổ điển và Thần học Thánh Kinh.
8. Đức Tin Và Tín Ngưỡng.
9. Thế giới vô cùng lớn.
10. Thế giới vô cùng nhỏ.
(Theo tài liệu do con cháu cha Gioan B. Trần Thanh Ngoạn cung cấp)
GP Ban Mê Thuột[align=justify]
[/align]
VietCatholic News (11 Sep 2009 11:33)
Cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn - Cuốn từ điển bách khoa sống
Người giáo dân Vinh không ai là không biết đến địa danh xứ đạo Thọ Ninh. Đó là một xứ đạo truyền thống “lắm cụ nhiều quan”, nơi sản sinh nhiều nhân vật đạo đời nổi tiếng. Từ trước tới nay, Giáo xứ Thọ Ninh đã cung cấp cho Giáo Hội đến 79 linh mục triều, dòng. Nhưng nổi bật hơn cả, phải kể đến cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn. Ngài vừa là linh mục gốc giáo phận Vinh, nhưng cũng là linh mục của giáo phận Ban Mê Thuột với các chức danh: cha sở, cha quản hạt, cha Tổng đại diện giáo phận Ban Mê Thuột.
Ngài sinh năm 1898 trong một gia đình Công giáo đạo hạnh tại giáo xứ Thọ Ninh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thân phụ là một nhà nho làm nghề đông y nổi tiếng. Sau khi học 6 năm Tiểu chủng viện và giúp xứ 6 năm, thầy Ngoạn được cử đi du học 6 năm tại Đại chủng viện Penang, Malaysia, một Đại chủng viện quốc tế dành cho các sinh viên miền Đông Á. Tốt nghiệp, ngài trở về Việt Nam và chịu chức linh mục dịp Lễ Chúa Giáng sinh 1932. Sau đó, ngài lần lượt đảm nhận các chức vụ: giáo sư Tiểu chủng viện (1933-1943); giáo sư Đại chủng viện, rồi Giám đốc Đại chủng viện Xã Đoài (1943-1956).
Biến cố chia đôi đất nước đưa ngài lên cao nguyên Ban Mê Thuột cùng với một số giáo dân Vinh. Ngài nhập giáo phận Kontum và làm cha sở giáo xứ Ban Mê Thuột. Ngài xây nhà thờ với kiểu dáng giống nhà thờ Sapa thuộc giáo phận Hưng Hóa. Nhà thờ này trở thành Nhà thờ Chính Tòa khi thành lập giáo phận Ban Mê Thuột năm 1967. Năm 1969, cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn xin nghỉ hưu, vì tuổi già sức yếu. Ngài rút về nhà người cháu là ông Trần Văn Cung, để nghỉ ngơi và chuyên lo nghiên cứu và đọc sách. Thỉnh thoảng ngài được mời giảng tĩnh tâm, hay thuyết trình cho các linh mục, các Dòng tu về thần học và tu đức. Ngài là một linh mục thánh thiện, khiêm tốn. Tuy cao niên và là bậc thầy của nhiều thế hệ linh mục, ngài vẫn xưng “con” với người đối thoại. Ngài sống rất khó nghèo, đạm bạc… Đơn sơ trong y phục và sử dụng các phương tiện. Những dịp tĩnh tâm hạt, hoặc tĩnh tâm thường niên của các linh mục giáo phận, ngài thường lưu ý: Phải đọc Thần vụ thong thả để có thể nếm được cái ý vị ngọt ngào và phong phú của Thánh Vịnh. Ngài dâng lễ sốt sắng, khoan thai. Các bài giảng của ngài phải nói được là những bài giáo lý mẫu (Keryma) rất hấp dẫn, cụ thể, được minh họa bằng những câu chuyện sinh động, trí thức kính nể, bình dân hiểu rõ. Các giáo xứ đến phiên chầu lượt, đều muốn mời cha già Ngoạn đến giảng về Bí tích Thánh Thể. Nổi tiếng là thông thái, ngài cũng từng được mời giảng trong thánh lễ riêng của vị đứng đầu chính phủ VNCH thời đó. Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sau khi tiếp xúc với cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn, thấy được kiến thức uyên bác của ngài, đã nói: “Ban Mê Thuột có một cuốn từ điển bách khoa sống”. Đức Cố Giám mục Paul Seitz (Đức cha Kim) đã dùng cha Ngoạn làm cố vấn thần học. Một linh mục học trò của ngài kể lại: Khi còn là giáo sư Đại chủng viện Xã Đoài, giáo phận Vinh, mỗi dịp đi nghỉ hè, ngài thường đưa một số đại chủng sinh đi theo, đến một xứ nào đó, để trình bày về một vấn đề thần học, hoặc triết học. Cách trình bày rất bình dân, dễ hiểu, ai cũng có thể tiếp thu.
Về sự nghiệp văn hóa: cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn là một “học giả thầm lặng". Có thể gọi ngài là "nhà thần học uyên thâm của Giáo Hội Việt Nam” (lời Đức cha Phêrô Trần Xuân Hạp) Bẩm sinh thông minh, hiếu học, say mê đọc sách. Thích nghiên cứu, sưu tầm đủ loại vấn đề, ghi chép thành “fiches” (phiếu). Các học trò của ngài đều được khuyến khích viết fiches. Ngài có một bộ phiếu khổng lồ mà Ngài gọi là “silva rerum”, nghĩa là như một khu rừng tài liệu văn hóa. Rất tiếc là kho tàng quý báu này đã bị tiêu tán mất 2 lần, vào năm 1955 (di cư vào Nam) và 1975 (thống nhất đất nước). Chính ngài đã tâm sự thế này: “Trong đời linh mục của tôi đến nay (1975) đã trên 40 năm. Tôi thích đọc sách, nghiên cứu, sưu tầm, rồi lập danh mục, viết những phiếu ghi chép … Có loại phiếu đánh số thứ tự, loại ghi theo chuyên đề… Có khi viết ra thành tập như tập “Thế giới vô cùng lớn”, “Thế giới vô cùng nhỏ”, “Khoa học có thể tạo nên vật sống được không, theo phương diện tín lý”? “Đức tin và Tín ngưỡng”, “Đức tin và luân lý”, Đức tin và Tôn giáo”, “Suy luận về định nghĩa Đức tin theo thần học cổ điển”, “Thần học cổ điển và Thần học Thánh Kinh”, “Cho được sống mầu nhiệm Đức tin”…Còn nhiều tập khác, ngài không thể nhớ hết. Trong đời ngài, có 2 lần mất mát mà ngài cho là lớn nhất, vì là mất những cái mà ngài cho là quý hóa nhất. Đó là mất những biên tập, những ghi chép nói trên. Mỗi lần mất như vậy, là mất hết những công trình sưu tầm trong 20 năm, từ khi làm giáo sư Tiểu rồi Đại chủng viện (1935–1955). Biến cố đất nước chia đôi và cuộc di cư khiến ngài không mang được gì. Tại miền Nam, Ngài lại khởi công sưu tầm, biên chép làm phiếu, ghi notes… và biên khảo, như tập “Những đặc điểm ngoại thường trong Hiến chế Vui mừng và Hy vọng”, và tập viết bằng Pháp văn. “Essai d’une nouvelle exposition de la doctrine Eucharistique”… Nhưng tập ngài yêu quý nhất là tập “Cho được sống mầu nhiệm Phục Sinh” đang viết dở dang, dày 400 trang vở học sinh, chữ nhỏ. Đùng một cái, vừa đúng 20 năm sưu tầm, tức là ngày 10-03-1975, nhà ngài bị đạn pháo bắn cháy thiêu hủy tất cả tài sản. Sau lần tổn thất to lớn này, ngài không còn hy vọng tiếp tục công trình sưu tầm, nghiên cứu, vì một phần tuổi già, sức yếu, một phần không thể kiếm lại và mua sắm được những sách vở, tài liệu như trước. Thỉnh thoảng, - như một quán tính, - ngài vẫn cố nhớ lại những gì đã viết, đã nghiên cứu. Sự hồi tưởng này giúp ngài như được nếm những vị ngọt trên trời (sapere coelestia). Sự cố gắng hồi tưởng và “bươi móc” ký ức, theo ngài, không những giúp ích thiêng liêng, mà còn có thể thu thập được một số “mảnh vụn” (fragmenta). Nếu không được “12 thúng” thì ít ra cùng được vài “nhúm tay”. Như vậy, cũng không phải là uổng công dã tràng! (Colligite quae superaverunt fragmenta, ne pereant).
Người ta càng khâm phục và ca ngợi trí thông minh sâu sắc của cha Gioan Baotixita Trần Thanh Ngoạn, khi biết rằng, tuy được hấp thụ một nền thần học cổ điển, kinh viện, thời Trung cổ, thế nhưng, ngài đã có một ngòi bút phân tích và tổng hợp rất hệ thống. Chúng ta hãy đọc những “fragmenta” ngài viết trong thời gian nghỉ hưu và bệnh tật:
1. Đức Tin Phục Sinh.
2. Những đặc điểm ngoại thường trong Hiến chế Vui mừng và Hy vọng.
3. Thiên Chúa là Tình Yêu.
4. Bí tích Thánh Thể theo trào lưu Thần học thời đại Vaticanô II.
5. Thánh Thần ban sự sống.
6. Nghệ thuật thuyết giảng của linh mục.
7. Thần học cổ điển và Thần học Thánh Kinh.
8. Đức Tin Và Tín Ngưỡng.
9. Thế giới vô cùng lớn.
10. Thế giới vô cùng nhỏ.
(Theo tài liệu do con cháu cha Gioan B. Trần Thanh Ngoạn cung cấp)
GP Ban Mê Thuột[align=justify]
[/align]
nguyen nhat cuong- Tổng số bài gửi : 11
Join date : 27/10/2013
Similar topics
» Hãy dùng "CON MẮT THỨ 3"
» Tác Dung Của Việc Đọc Sách
» Đức chân phước Gioan Phaolô II:
» Theo Bước Chân Người
» 29/10/2013 Mẹ Đinh Nhật Uy: Theo điều 258, người bị bắt kế tiếp sẽ là tôi, vì tôi cũng dùng Facebook
» Tác Dung Của Việc Đọc Sách
» Đức chân phước Gioan Phaolô II:
» Theo Bước Chân Người
» 29/10/2013 Mẹ Đinh Nhật Uy: Theo điều 258, người bị bắt kế tiếp sẽ là tôi, vì tôi cũng dùng Facebook
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|